Video

Văn phòng Thừa phát lại

Thống kê
Vistited  
Online  

Toàn văn tham luận của Thừa phát lại TPHCM 2014

Monday, 08/12/2014, 15:50 GMT+7

TPL Lê Mạnh Hùng - Trường VPTPL Bình Thạnh phát biểu tại Hội nghị

Tại Hội nghị sơ kết Thừa phát lại thí điểm theo nghị quyết 36 của Quốc hội diển ra ngày 04/12/2014 tại Hà Nội, Thừa phát lại Lê Mạnh Hùng - Trường Văn phòng Thừa phát lại quận Bình Thạnh đã có bài phát biểu rất đáng chú ý, được Hội nghị đánh giá rất cao.

Có thể nói rằng, đây gần như là đánh giá tổng kết toàn bộ những thành quả, khó khăn vướng mắc của Thừa phát lại thời gian qua thí điểm tại TP.HCM, đồng thời đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm hoàn thiện chế định Thừa phát lại trong thời gian tới.

THAM LUẬN

NHỮNG THÀNH TỰU CỦA QUÁ TRÌNH THÍ ĐIỂM CHẾ ĐỊNH

THỪA PHÁT LẠI TẠI TP. HỒ CHÍ MINH VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

     (TPL. Lê Mạnh Hùng

 Trưởng VPTPL Bình Thạnh, TP.HCM)

 

I/ MỘT SỐ THÀNH TỰU CỦA QUÁ TRÌNH THÍ ĐIỂM CHẾ ĐỊNH THỪA PHÁT LẠI TẠI TP. HỒ CHÍ MINH

  1. Khái quát chung

Thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp đã xác định:“Nghiên cứu việc xã hội hóa một số hoạt động bổ trợ tư pháp”. Chủ trương xã hội hóa một số hoạt động bổ trợ tư pháp tiếp tục được khẳng định trong Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ chính trị, đó là:“Từng bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án”, mà cụ thể hơn là “nghiên cứu chế định Thừa phát lại: trước mắt có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm, trên cơ sở đó tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo”.

  1.  

Sau thời gian thí điểm tại TP. Hồ Chí Minh, với những thành công bước đầu, ngày 23/11/2012, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 36/2012/QH13 giao cho Chính phủ tiếp tục triển khai việc thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại 13 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đến hết 31/12/2015. Như vậy, bước đầu hệ thống Thừa phát lại đã dần được hình thành ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phân bổ đều trên cả nước.

Riêng tại TP. Hồ Chí Minh, là nơi được Nhà nước tin tưởng lựa chọn để thí điểm chế định Thừa phát lại,  từ 5 Văn phòng Thừa phát lại đầu tiên được thành lập và hoạt động vào tháng 5/2010, đến nay đã có 12 Văn phòng Thừa phát lại được thành lập, và 11 Văn phòng Thừa phát lại hoạt động. Về nhân sự, Tp. Hồ Chí Minh hiện có tổng số 35 Thừa phát lại đang hành nghề, số thư ký nghiệp vụ Thừa phát lại là 89 người, tổng số nhân viên khác là 56 người.

Kết quả hoạt động của Thừa phát lại thí điểm tại TP.HCM đã được Đảng, Nhà nước và Nhân dân đánh giá cao, là cơ sở cho việc mở rộng phạm vi thí điểm trên khắp cả nước. Hiệu quả hoạt động của Thừa phát lại thể hiện cụ thể qua kết quả thực hiện các chức năng của Thừa phát lại là tống đạt, lập vi bằng, tổ chức thi hành án và xác minh điều kiện thi hành án.

  1. Hoạt động tống đạt

Tống đạt là chức năng quan trọng của Thừa phát lại, góp phần giảm tải cho  Tòa án và cơ quan thi hành án dân sự, tạo điều kiện để các cơ quan này tập trung thời gian, công sức vào việc thực hiện một cách có hiệu quả chức năng chính của mình.

Các Văn phòng Thừa phát lại trong thời gian qua đã tống đạt 351.897 văn bản của 25 Tòa án và 25 cơ quan thi hành án dân sự tại TP. HCM, doanh thu đạt 22.172.627.000 đồng (chiếm tỷ lệ 39% tổng doanh thu).

  1. Hoạt động lập vi bằng

Vi bằng chính là thế mạnh của Thừa phát lại. Thế mạnh này thể hiện ở vai trò, vị thế của Thừa phát lại trong việc lập vi bằng. Ngoài Thừa phát lại, không có một hệ thống cơ quan nào giúp người dân xác lập chứng cứ theo yêu cầu, với thủ tục giản đơn và không hạn chế thời gian. Đến tháng 10/2014, các Văn phòng Thừa phát lại tại TP. Hồ Chí Minh đã lập và đăng ký tại Sở Tư pháp TP. HCM 22.940 vi bằng, doanh thu 31.270.347.000 đồng (chiếm tỷ lệ 55% tổng doanh thu). Nội dung vi bằng thể hiện phong phú trên nhiều lĩnh vực như: Ghi nhận việc thực hiện các giao dịch, thỏa thuận; mô tả hiện trạng nhà; ghi nhận lời khai của người làm chứng; ghi nhận hành vi, thời điểm mua bán; ghi nhận cuộc họp của công ty; ghi nhận việc xâm phạm sở hữu trí tuệ; sự kiện trên internet; việc bàn giao tiền, tài sản, giấy tờ … dùng làm chứng cứ.

Trong quan hệ dân sự, Vi bằng của Thừa phát lại là công cụ để người dân, doanh nghiệp tự bảo vệ mình trong quá trình đàm phán, ký kết, thực hiện các giao dịch dân sự, cũng như xác lập các chứng cứ để bảo vệ mình trong quá trình hòa giải, thương lượng hoặc xét xử mà trước khi có Thừa phát lại, hầu như không có cơ quan nào có chức năng giúp cho người dân thực hiện những việc này. Việc lập vi bằng của Thừa phát lại được đánh giá là đáp ứng được nhu cầu rất lớn, phong phú, đa dạng trên nhiều lĩnh vực khác nhau của người dân, góp phần hỗ trợ tích cực cho cá nhân, tổ chức xác lập chứng cứ, hạn chế tranh chấp, rủi ro về pháp lý trong các giao dịch dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho người dân.

Thời gian qua, các Văn phòng Thừa phát lại đã lập một số vi bằng có tác dụng thiết thực và gây tiếng vang lớn như: Văn phòng Thừa phát lại Quận Bình Thạnh lập vi bằng trong suốt quá trình giải quyết tranh chấp liên quan đến khối di sản 1000 tỉ của bà Thạch Kim Phát, gây tiếng vang lớn trong dư luận trong nước và cả kiều bào ở nước ngoài; Văn phòng Thừa phát lại Quận 1 lập vi bằng liên quan đến việc đòi lại thương hiệu cà phê Buôn Mê Thuộc tại Trung Quốc…

  1. Hoạt động tổ chức thi hành án

Với sự ra đời của Thừa phát lại,  người dân có quyền lựa chọn dịch vụ thi hành án tốt nhất, đáp ứng nhu cầu của người dân trong việc thực thi bản án, quyết định của Tòa án một cách nhanh chóng, chính xác, kịp thời. Thừa phát lại được kỳ vọng như một lực lượng mới có thể sẻ chia trách nhiệm với hệ thống cơ quan thi hành án hiện hành, gánh vác một phần trách nhiệm về tổ chức thi hành án, tạo thêm quyền lợi cho người dân trong việc lựa chọn dịch vụ thi hành án tốt nhất cho mình.

Văn phòng Thừa phát lại có thẩm quyền tổ chức thi hành án dân sự tương đương Chi cục thi hành án dân sự nơi Văn phòng Thừa phát lại có trụ sở đối với án theo đơn yêu cầu. Thời gian qua, các Văn phòng Thừa phát lại đã chấm dứt thi hành án 75 việc, đạt giá trị thi hành án về tiền là 66.278.748.936 đồng, doanh thu 1.683.601.582 đồng (chiếm tỷ lệ 3%). Tuy nhiên, so với nhu cầu xã hội, năng lực của các Văn phòng Thừa phát lại thì kết quả thi hành án như trên được đánh giá “là quá khiêm tốn, chưa phản ánh đúng nhu cầu to lớn của người dân thành phố cũng như năng lực của các Văn phòng Thừa phát lại”.

Mặc dù số lượng việc thi hành án các Văn phòng Thừa phát lại thụ lý còn thấp, nhưng bước đầu đã được sự thừa nhận và tin tưởng của xã hội, số lượng thụ lý việc thi hành án của Thừa phát lại ngày càng tăng, một số việc có giá trị đặc biệt lớn như điển hình là Văn phòng Thừa phát lại Quận Bình Thạnh đã thụ lý tổ chức thi hành án đối với công ty Cổ phần đầu tư Kiến Quân theo đơn yêu cầu của công ty tài chính TNHH Một thành viên Cao su Việt Nam với giá trị về tiền lên đến 148.618.855.000 đồng.

  1. Hoạt động xác minh điều kiện thi hành án

Xác minh điều kiện thi hành án là vấn đề tiên quyết trong việc tổ chức thi hành án. Tuy nhiên, người dân không có đủ điều kiện để thực hiện những công việc này. Vì vậy, với sự ra đời của các Văn phòng Thừa phát lại, người dân có thêm công cụ hỗ trợ tích cực cho việc bảo đảm quyền lợi hợp pháp của mình trong quá trình tổ chức thi hành án dân sự.

Thời gian qua, các Văn phòng Thừa phát lại đã thực hiện 361 việc xác minh điều kiện thi hành án, doanh thu 1.586.250.000 đồng (chiếm tỷ lệ 3% tổng doanh thu). Chức năng xác minh điều kiện thi hành án của Thừa phát lại được đánh giá như là trợ thủ pháp lý đắc lực cho người được thi hành án.

Như vậy, thời gian thí điểm qua, 11 Văn phòng Thừa phát lại tại TP. Hồ Chí Minh với tổng số nhân sự là 35 Thừa phát lại, 89 thư ký nghiệp vụ và 56 nhân viên khác đã thực hiện các công việc lập vi bằng, tống đạt, tổ chức thi hành án và xác minh điều kiện thi hành án, tổng doanh thu đạt được là …. đồng. Kết quả đạt được khả quan như trên, là cơ sở, tiền đề quan trọng cho việc tiếp tục kéo dài và mở rộng phạm vi thí điểm chế định Thừa phát lại. Mặc dù vậy, tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thời gian qua vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc cần được khắc phục, đặt biệt là trong lĩnh vực tổ chức thi hành án và xác minh điều kiện thi hành án.

II/ NHỮNG KHÓ KHĂN VƯỚNG MẮC TRONG QUÁ TRÌNH THÍ ĐIỂM THỪA PHÁT LẠI TẠI TP. HỒ CHÍ MINH

  1. Về công tác tống đạt

Nhìn chung, công tác tống đạt hiện nay các Văn phòng Thừa phát lại  đang thực hiện khác vất vả, chi phí tống đạt cao nhưng mức phí tống đạt thấp và nhiều bất cập.

- Thứ nhất, về thủ tục tống đạt:

Công tác tống đạt gặp rất nhiều khó khăn do Luật quy định chưa rõ ràng, dẫn đến nhiều cách hiểu cách hiểu và thực hiện tống đạt theo quy định của Luật thi hành án dân sự và Luật Tố tụng dân sự chưa thống nhất, đặc biệt là khi có sự tham gia của Thừa phát lại. Thực tế cho thấy, có trường hợp cùng một tình huống, một nội dung văn bản tống đạt nhưng Tòa này chấp nhận, Tòa khác lại không chấp nhận; thậm chí, trong cùng một Tòa án, thẩm phán này chấp nhận, nhưng thẩm phán khác lại không chấp nhận. Trong quá trình thí điểm, một số vấn đề về thống nhất thủ tục tống đạt đã được đặt ra nhưng chưa có điều kiện thực hiện. Thư ký nghiệp vụ khi tống đạt phải mang nhiều quy trình khác nhau cho các tòa khác nhau rất vất vả.

 

 

- Thứ hai, về cơ chế phối hợp:

Một trong những khó khăn mà Văn phòng Thừa phát lại gặp phải khi tống đạt là thư ký nghiệp vụ không thể tự mình thực hiện việc tống đạt, mà phụ thuộc rất nhiều vào sự hỗ trợ của Uỷ ban nhân dân, Công an Phường, Xã. Nguyên nhân này xuất phát từ thủ tục tống đạt như đã trình bày ở trên, một số cơ quan còn đòi hỏi trong văn bản tống đạt trực tiếp cho đương sự còn phải có cả con dấu của UBND Phường.

Qua thực tiễn tống đạt cho thấy, thủ tục về tống đạt còn nặng nề về hình thức, thủ tục ký tên, đóng dấu, nhưng chưa thực sự quan tâm đến nội dung, thậm chí trong một số trường hợp còn có thể bị khai thác để hợp thức hóa cho việc tống đạt gian dối, vì chỉ cần con dấu của UBND. Theo quy định, hầu hết các biên bản tống đạt đều phải được UBND xác nhận dẫn đến tình trạng dồn gánh nặng sang cho cán bộ tư pháp. Trong khi đó, pháp luật giao quá nhiều việc cho cán bộ tư pháp, nhưng biên chế chỉ từ 01 đến 02 người. Vì vậy, cán bộ tư pháp không làm hết việc, công tác tống đạt bị ứ động như một “nút thắt cổ chai”, dẫn đến tình trạng tống đạt trễ hạn. Một số trường hợp cần xác minh nơi cư trú của đương sự trước khi niêm yết cần phải có trả lời xác minh và con dấu của cơ quan công an xã phường, hầu hết những trường hợp này phải rơi vào tình trạng trễ hạn. Thông thường, một biên bản tống đạt nếu phải tống đạt thông qua người thứ ba cần có khoảng 5 chữ ký và 02 con dấu, trường hợp cần niêm yết phải có 6 chữ ký và hai con dấu, nếu phải xác minh nơi cư trú của đương sự trước khi niêm yết phải có đến 8 chữ ký và 03 con dấu mới được xem là hoàn thành để trả lại cho Tòa án và Cơ quan thi hành án dân sự.

Chúng tôi cho rằng, về lâu dài cần quy định riêng về thủ tục tống đạt của Thừa phát lại theo hướng: nâng cao thẩm quyền và trách nhiệm của các văn phòng Thừa phát lại, đồng thời giải phóng cán bộ tư pháp cũng như các chủ thể khác như Tổ trưởng dân phố, cảnh sát khu vực ra khỏi trách nhiệm tống đạt theo hướng: văn phòng Thừa phát lại chịu trách nhiệm về tính xác thực của các biên bản mà mình lập, đối với các trường hợp tống đạt trực tiếp, tống đạt qua người thứ ba, niêm yết thì chỉ cần xác nhận của thừa phát lại là đủ, và thừa phát lại chịu trách nhiệm về xác nhận của mình; Công an cấp xã chịu trách nhiệm cung cấp thông tin về việc cư trú của đương sự; UBND cấp xã có trách nhiệm đóng dấu treo vào biên bản niêm yết tại trụ sở UBND để xác nhận việc niêm yết.

  • Thứ ba, về chi phí tống đạt:

Thông tư liên tịch số

Nhìn chung, mức phí tống đạt tối đa cao hơn so với Thông tư liên tịch 12/2010/TTLT-BTP-BTC-TANDTC ngày 24/6/2010. Tuy nhiên, ngày 13/8/2014, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Công văn 138/TANDTC-KHTC hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về thực hiện thí điểm Thừa phát lại, và hiện nay phí tống đạt được thực hiện theo Công văn 138. Đáng lưu ý là khi thực tế thực hiện, mức phí tống đạt thực hiện theo Công văn 138 lại thấp hơn so với Thông tư liên tịch 12 trước đây, do Công văn 138 hướng dẫn về phí tống đạt trong trường hợp tống đạt cùng lúc nhiều văn bản cho một người, tống đạt nhiều văn bản cho nhiều người ở cùng địa chỉ trong cùng một địa phương quá thấp (không tính phí, hoặc chỉ tính phí 30.000 đồng), đồng thời tạo ra nhiều cách hiểu khác nhau, gây khó khăn trong quá trình áp dụng.

Ngoài ra, Thông tư liên tịch 09 chỉ quy định chung mức phí tối đa là 130.000 cho tất cả các địa phương, dẫn đến tình trạng khi áp dụng tại một số tỉnh, thành có các quận, huyện quá xa nhau, có khi lên đến 300 km, thì phí tống đạt chưa đủ chi phí đi lại. Cần nghiên cứu bổ sung nội dung chính quyền địa phương có thể hỗ trợ thêm chi phí tống đạt phù hợp với tình hình thực tế của địa phương.

  1. Về lập vi bằng

Hoạt động lập vi bằng của văn phòng Thừa phát lại trước đây thực hiện theo Nghị định 61 không gặp quá nhiều vướng mắc do Thừa phát lại được quyền chủ động thực hiện, không phụ thuộc nhiều vào bên thứ 3.

Tuy nhiên, khi Nghị định 61 được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 135/2013/NĐ-CP ngày18/10/2013, đã có nhiều nội dung thay đổi quan trọng liên quan đến hoạt động lập vi bằng, đáng chú ý là phạm vi thẩm quyền lập vi bằng bị thu hẹp hơn so với Nghị định 61, tức là bổ sung quy định Thừa phát lại không được lập vi bằng “các trường hợp thuộc thẩm quyền công chứng của tổ chức hành nghề công chứng hoặc thuộc thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân các cấp”

Đối với vấn đề này, nhân Hội nghị sơ kết thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại, các Văn phòng Thừa phát lại có một số ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về việc lập vi bằng như sau:

  1. Về thẩm quyền lập vi bằng

Hướng dẫn thực hiện Nghị định 61, Nghị định 135, Thông tư liên tịch 09, Bộ Tư pháp đã ban hành 415/BTP-TCTHA ngày 28/01/2011, Công văn số 1128/     BTP-TCTHADS ngày 18/1/2014 và Công văn số 4003/BTP-TCTHADS ngày 19/9/2014 hướng dẫn một số nội dung liên quan đến hoạt động lập vi bằng của Thừa phát lại. Theo đó, khi lập vi bằng Thừa phát lại chú ý:

  • (1) Không lập vi bằng để chứng nhận tính tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch; không xác nhận chữ ký, bản sao từ bản chính (là những việc thuộc thẩm quyền công chứng của tổ chức hành nghề công chứng hoặc thuộc thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân các cấp) .
  • (2) Không lập vi bằng các sự kiện, hành vi nhằm thực hiện các giao dịch trái pháp luật của người yêu cầu lập vi bằng trừ trường hợp sự kiện, hành vi trái pháp luật do người khác thực hiện ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người yêu cầu lập vi bằng.

- (3) Không được lập vi bằng các hành vi, sự kiện của cán bộ, công chức đang thi hành công vụ, trừ trường hợp các sự kiện, hành vi đó rõ ràng trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích của người yêu cầu lập vi bằng.

- (4) Không lập vi bằng để ghi nhận những sự kiện, hành vi mà mình không trực tiếp chứng kiến hoặc những sự kiện, hành vi chỉ thông qua lời kể của người khác.

Vì còn nhiều quan điểm khác nhau về thẩm quyền lập vi bằng, nên không chỉ có Thừa phát lại lúng túng trong việc xác định phạm vi, thẩm quyền lập vi bằng mà Sở Tư pháp cũng gặp khó khăn trong việc đăng ký hoặc từ chối đăng ký vi bằng. Chúng tôi cho rằng, cần có một cách hiểu thống nhất những nội dung trên, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động lập và đăng ký vi bằng, đảm bảo

  • Đối với vấn đề (1):

Thứ nhất, Thừa phát lại chỉ lập vi bằng ghi nhận sự kiện, hành vi mà không chứng nhận tính tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch; không xác nhận chữ ký, bản sao từ bản chính, vì đó là công việc của công chứng, chứng thực. Vì vậy, không thể hiểu rằng mọi trường hợp Thừa phát lại lập vi bằng ghi nhận các sự kiện các bên tiến hành họp, thảo luận, xác lập các văn bản, cam kết, xác nhận, thỏa thuận… đều là việc chứng nhận tính tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch hoặc là  xác nhận chữ ký. Tuy vậy, hướng dẫn nói trên tạo ra cách hiểu là Thừa phát lại không được lập vi bằng mọi sự kiện, hành vi có liên quan đến các hợp đồng giao dịch.

Ví dụ: Thừa phát lại có quyền lập vi bằng sự kiện các bên họp Hội đồng thành viên, sau đó ký biên bản họp.

Ví dụ: Hai vợ chồng chuẩn bị ly hôn, họ lập văn bản thỏa thuận những tài sản dự kiến sẽ phân chia, dự kiến giải quyết việc nuôi con… để làm cơ sở thực hiện về sau. Khi thực hiện, các bên phải ra tổ chức hành nghề công chứng để thực hiện các thủ tục theo quy định. Việc Thừa phát lại lập vi bằng ghi nhận hai vợ chồng tự lập văn bản thỏa thuận nói trên hoàn toàn không thuộc trường hợp bắt buộc công chứng, chứng thực. Vi bằng của Thừa phát lại là căn cứ để sau này các bên thực hiện nghĩa vụ của mình đã thỏa thuận trong văn bản do các bên tự lập.

Ví dụ: Thừa phát lại không được lập vi bằng ghi nhận sự kiện các bên xác lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Thứ hai, Nghị định 135 chỉ quy định không được lập vi bằng “các trường hợp thuộc thẩm quyền công chứng của tổ chức hành nghề công chứng hoặc thuộc thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân các cấp”, nhưng văn bản hướng dẫn lại mở rộng ra mọi “hợp đồng, giao dịch; xác nhận chữ ký, bản sao từ bản chính” là quá rộng so với quy định của Nghị định 135. Chúng tôi đồng ý và ủng hộ quan điểm cho rằng  nội dung trên cần được hiểu là “các trường hợp mà Pháp luật bắt buộc phải công chứng, chứng thực” vì thực chất, các văn phòng Thừa phát lại chỉ lập vi bằng ghi nhận sự kiện, hành vi chứ không chứng nhận nội dung hợp đồng, giao dịch hay chứng thực chữ ký.

Vì vậy, chúng tôi kiến nghị nên có hướng dẫn cụ thể là “Trong thời gian thí điểm, Thừa phát lại không được lập vi bằng sự kiện, hành vi các bên xác lập hợp đồng, giao dịch mà pháp luật bắt buộc phải công chứng, chứng thực”

  • Đối với vấn đề (2):

Vi bằng được Thừa phát lập chỉ với một mục đích duy nhất: đó là tạo lập chứng cứ để tổ chức, cá nhân tùy nghi sử dụng trong xét xử hoặc các quan hệ pháp lý khác. Mặt khác, Thừa phát lại cũng không phải là cơ quan có thẩm quyền xác định sự kiện, hành vi nào là sự kiện, hành vi trái pháp luật. Thực tế, một số hợp đồng, giao dịch có dấu hiệu không đảm bảo hình thức mà Luật quy định, nhưng nếu nhìn nhận dưới góc độ chứng cứ, những sự kiện, hành vi mà Thừa phát lại lập vi bằng có liên quan đến những hợp đồng, giao dịch này (VD giao nhận tiền, ký cam kết, thỏa thuận) lại làm cơ sở cho việc giải quyết tranh chấp về sau, hỗ trợ đắc lực cho hoạt động xét xử của Tòa án.

Ví dụ: Các bên mua bán nhà giấy tay, nay nhờ Thừa phát lại lập vi bằng ghi nhận việc các bên có giao nhận tiền. Sự kiện Thừa phát lại lập vi bằng chính là việc giao nhận tiền của các bên. Giao dịch mua bán nhà đất của các bên về sau nếu có tranh chấp, có thể bị Tòa án tuyên là vô hiệu, nhưng vi bằng của Thừa phát lại chính là chứng cứ chứng minh việc các bên đã có giao nhận tiền, làm cơ sở cho Tòa án giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu.

Vì vậy, cần thống nhất cách hiểu sự kiện hành vi lập vi bằng như quy định tại Nghị định 135, không thể buộc Thừa phái lại phải biết, và đảm bảo mục đích sử dụng của Vi bằng, vì người yêu cầu lập vi bằng có quyền tùy nghi sử dụng vi bằng trong khuôn khổ pháp luật.

  • Đối với vấn đề (3):

Thứ nhất, Việc TPL lập vi bằng có liên quan đến hành vi của cán bộ, công chức không bị Nghị định 61, Nghị định 135 cấm lập vi bằng, mà chỉ nói chung là “trừ các trường hợp vi phạm quy định về bảo đảm an ninh, quốc phòng, đời tư, đạo đức xã hội và các trường hợp pháp luật cấm”.

Thứ hai, Thừa phát lại chỉ có quyền ghi nhận sự kiện, hành vi mà không có quyền nhận xét, hay phán quyết đâu là sự kiện, hành vi rõ ràng trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích của người yêu cầu lập vi bằng. Mục đích lập vi bằng là để tạo lập chứng cứ, để cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền phán quyết đó có phải là hành vi trái pháp luật hay không.

Ví dụ: Thực tế có trường hợp Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng của Ủy ban nhân dân Quận X đề nghị Thừa phát lại lập vi bằng ghi nhận sự kiện đại diện của Ban đến giao cho người dân quyết định thu hồi đất. Trong trường hợp này, sự kiện lập vi bằng chính là sự kiện đại diện của Ban đến giao quyết định thu hồi đất cho người dân, làm cơ sở cho việc thực hiện các thủ tục khác của Ủy ban.

Chúng tôi đồng tình với quan điểm cho rằng việc lập vi bằng cần hướng đến mục đích tạo lập chứng cứ bảo vệ người dân, nhưng không xâm phạm đến an ninh, quốc phòng, trật tự trị an, gây ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, có thể hạn chế việc lập vi bằng trong một số trường hợp như: liên quan đến bí mật quân sự, hoạt động của lực lượng vũ trang, hoạt động xét xử của Tòa án, hoạt động thi hành án của cơ quan thi hành án, hoạt động cưỡng chế của Nhà nước, trừ trường hợp được người có trách nhiệm giải quyết vụ việc đồng ý. Ngoài ra, những sự việc khác, kể cả có sự liên quan đến hành vi của cán bộ, công chức Thừa phát lại đều có quyền tham gia lập vi bằng, nếu người yêu cầu lập vi bằng chứng minh được quyền, nghĩa vụ của họ bị ảnh hưởng bởi hành vi của cán bộ, công chức.

  • Đối với vấn đề 4:

Có ý kiến cho rằng, do khoản 2 Điều 26 Nghị định 61 quy định

Chúng tôi cho rằng hiểu như vậy là chưa đầy đủ. Khoản 2 Điều 26 Nghị định 61 quy định về thủ tục lập vi bằng, tức là những công việc mà Thừa phát lại phải thực hiện lập vi bằng. Bởi vì công việc lập vi bằng là việc mô tả lại, chụp lại một sự kiện có thật, việc mô tả phải chính xác, trung thực, khách quan. Vì vậy, Thừa phát lại chỉ được ghi nhận những sự kiện, hành vi mà Thừa phát lại trực tiếp chứng kiến.

Tuy nhiên, đối với loại vi bằng ghi nhận lời khai, lời trình bày, xác nhận một sự việc trong quá khứ là loại vi bằng mà Thừa phát lại ghi nhận sự kiện một hoặc nhiều cá nhân trình bày một nội dung nào đó trước mặt Thừa phát lại. Thừa phát lại có trách nhiệm ghi lại trung thực, khách quan vào vi bằng những gì người đó trình bày, xác nhận. Sự kiện lập vi bằng đó đang diễn ra trước mặt Thừa phát lại. Còn nội dung họ xác nhận, trình bày phải do chính họ chịu trách nhiệm.

Ví dụ: ông A là người làm chứng trong một vụ án, nhưng ông bị bệnh không thể ra Tòa, ông muốn Thừa phát lại lập vi bằng ghi nhận lời trình bày của ông để làm chứng trước Tòa.

Hoặc một ví dụ khác,Thừa phát lại lập vi bằng ghi nhận lời trình bày của người làm chứng thuật lại vụ tai nạn xe đã xảy ra làm bằng chứng cho cơ quan điều tra hoặc cho cơ quan bảo hiểm giải quyết việc bồi thường. Hoặc sắp tới đây, Luật Tố tụng hình sự có thể cho phép người bào chữa được quyền điều tra, thu thập chứng cứ, thì những dạng vi bằng như trên phục vụ đắc lực cho hoạt động này.

Vì vậy, chúng tôi cho rằng nội dung “không lập vi bằng để ghi nhận những sự kiện, hành vi mà mình không trực tiếp chứng kiến hoặc những sự kiện, hành vi chỉ thông qua lời kể của người khác” theo Điều 26 Nghị định 61 cần được thống nhất cách hiểu đúng với ý nghĩa là “thủ tục lập vi bằng” và là “kỹ năng lập vi bằng” của Thừa phát lại, và không nên cấm Thừa phát lại lập vi bằng ghi nhận lời khai, lời trình bày, xác nhận một sự việc trong quá khứ.

  1. Về việc đăng ký vi bằng

Thực hiện việc đăng ký vi bằng theo Nghị định 135 làm cho các Sở Tư pháp và các Văn phòng Thừa phát lại lúng túng, vì đây là thay đổi rất quan trọng: Sở Tư pháp từ chỗ chỉ đăng ký vi bằng về mặt hình thức, để xác nhận có việc lập vi bằng, xác nhận việc đăng ký vi bằng đúng hạn, giờ phải kiểm tra về mặt nội dung của Vi bằng để xem vi bằng được lập đúng phạm vi, thẩm quyền hay không trong bối cảnh phạm vi, thẩm quyền lập vi bằng của Thừa phát lại còn nhiều cách hiểu chưa thống nhất.

Bên cạnh đó, việc Sở Tư pháp có quyền từ chối đăng ký vi bằng củng làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp như:

- Sở Tư pháp có phải liên đới chịu trách nhiệm với Thừa phát lại về giá trị pháp lý của vi bằng nếu vi bằng đã đăng ký nhưng bị Tòa án bác bỏ vì vi bằng đó lập không đúng quy định pháp luật?

- Vi bằng được lập đúng quy định pháp luật, đi đăng ký đúng hạn nhưng Sở Tư pháp từ chối đăng ký gây nên thiệt hại cho người yêu cầu lập vi bằng?

- Vi bằng được lập không đúng theo quy định pháp luật và Sở Tư pháp từ chối đăng ký?

- Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại trong việc từ chối đăng ký vi bằng giữa người yêu cầu lập vi bằng, người liên quan, Văn phòng Thừa phát lại và Sở Tư pháp?

Những câu hỏi nói trên chưa có văn bản hướng dẫn rõ ràng, không chỉ làm Sở Tư pháp lúng túng trong việc đăng ký hoặc từ chối đăng ký vi bằng.

  1. Về tổ chức thi hành án

Công tác tổ chức thi hành án của Thừa phát lại gặp hai khó khăn cơ bản:

  • Thứ nhất, số việc thi hành án của Thừa phát lại thụ lý quá thấp so với khả năng của Văn phòng và nhu cầu của xã hội;
  • Thứ hai, công tác phối hợp giữa Văn phòng Thừa phát lại và các cơ quan có thẩm quyền liên quan chưa tốt (Cơ quan Thuế, Ngân hàng, đăng ký quyền sử dụng đất, chính quyền địa phương …).
  • Thứ ba, Thông tư liên ngành 03 chỉ quy định về việc xác minh tài khoản, mà không quy định thẩm quyền phong tỏa, khấu trừ tiền trong tài khoản của Thừa phát lại gây khó khăn cho hoạt động thi hành án của Thừa phát lại.
  • Thứ tư, về thẩm quyền cưỡng chế có sử dụng lực lượng của Thừa phát lại.

Qua gần năm năm thí điểm Thừa phát lại tại TP. Hồ Chí Minh, Thừa phát lại chưa thực hiện thủ tục cưỡng chế có sử dụng lực lượng, nguyên nhân chủ yếu là Thừa phát lại luôn đặt vấn đề giáo dục, thuyết phục trong quá trình tổ chức thi hành án dân sự là phương pháp quan trọng nhất.

Hiện nay, có quan điểm không đồng tình về thẩm quyền cưỡng chế có sử dụng lực lượng của Thừa phát lại, vì Thừa phát lại hoạt động theo mô hình doanh nghiệp, tự chủ về tài chính, không phải là cơ quan Nhà nước. Tuy nhiên, phải thấy rằng Văn phòng Thừa phát lại do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập, Thừa phát lại là người được Nhà nước bổ nhiệm và trao quyền tổ chức thi hành án tương tự như Chấp hành viên và thực hiện các công việc khác (lập vi bằng, tống đạt, xác minh điều kiện thi hành án). Thừa phát lại là một công lại, được Nhà nước giao quyền tổ chức thi hành án theo quy định của pháp luật. Vì vậy, việc cho phép Thừa phát lại  có một số nhiệm vụ, quyền hạn tương đương chấp hành viên là phù hợp với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Một vài ý kiến lo ngại Thừa phát lại chỉ được thực hiện một số công việc thi hành án dân sự nên việc huy động lực lượng bảo vệ giải quyết vấn đề liên quan trật tự, an ninh, chính trị tại địa phương là không phù hợp với sự phân công và kiểm soát quyền lực trong bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại đã được quy định một cách cụ thể và chặt chẽ trong Nghị định 61/2009/NĐ-CP và Nghị định 135/2013/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thi hành. Trong đó, quy trình nghiệp vụ tổ chức thi hành án được quy định cụ thể, đồng thời Thừa phát lại phải tuân thủ Luật Thi hành án dân sự. Bên cạnh đó, trong quá trình tổ chức thi hành án, Thừa phát lại phải chịu sự quản lý của Sở Tư Pháp, Cục thi hành án dân sự, chịu sự kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân. Vì vậy, cơ chế thực hiện việc tổ chức thi hành án của Thừa phát lại hoàn toàn năm trong sự kiểm soát của Nhà nước.

Trong quá trình tổ chức thi hành án, Thừa phát lại có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định tại Điều 71 của Luật Thi hành án dân sự 2008. Tuy nhiên, trong trường hợp cưỡng chế thi hành án cần huy động lực lượng bảo vệ, Văn phòng Thừa phát lại phải báo cáo, xin ý kiến của Trưởng Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự cấp huyện nơi đặt Văn phòng Thừa phát lại. Trên cơ sở ý kiến của Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự, Văn phòng Thừa phát lại lập kế hoạch cưỡng chế, báo cáo Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự, kèm theo hồ sơ thi hành án để Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự xem xét, phê duyệt kế hoạch cưỡng chế và ra quyết định cưỡng chế thi hành án. Như vậy, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế có huy động lực lượng bảo vệ không còn là việc riêng giữa Văn phòng Thừa phát lại và các bên đương sự, mà còn là công việc của cả hệ thống chính trị, được Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự và Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự tham gia chỉ đạo thực hiện, không chỉ đảm bảo bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành mà còn đảm bảo nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự tại địa phương, hạn chế tối đa việc lạm quyền của Thừa phát lại. Chúng tôi cho rằng, quy trình cưỡng chế có sự dụng lực lượng theo quy định hiện nay phù hợp với thực tế triển khai trong thời gian thí điểm.

Việc tổ chức thi hành án do Chấp hành viên hay do Thừa phát lại thực hiện đều là nhằm mục đích đảm bảo cho bản án, quyết định của Tòa án – vốn nhân danh Nhà nước tuyên án – được thực thi trên thực tế, đảm bảo cho pháp luật được tuân thủ và thực hiện, không phải là việc riêng của cơ quan, tổ chức, cá nhân nào. Các tổ chức, cá nhân khác phối hợp tổ chức thi hành án là thực thi theo quy định của pháp luật chứ không thực hiện theo yêu cầu của cá nhân Thừa phát lại, không thể cho rằng việc đó là làm theo lệnh của Thừa phát lại. Trong quá trình hoàn thiện thể chế, chúng tôi đề nghị nên kế thừa Sắc lệnh 130 ngày 19/7/1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc dùng từ ngữ trong Sắc lệnh 130 rất chuẩn xác, thể hiện đúng tinh thần của Nhà nước pháp quyền, đó là: “Vậy, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa truyền cho các Thừa phát lại theo yêu cầu của đương sự thi hành bản án này, các ông chưởng lý và biện lý kiểm sát việc thi hành án, cai trị chỉ huy binh lực giúp đỡ mỗi khi đương sự chiếu luật yêu cầu…”.

- Thứ năm, về việc ủy thác thi hành án của Thừa phát lại

 Hiện nay, trong trường hợp phát sinh điều kiện thi hành án nằm ngoài địa bàn cấp tỉnh nơi đặt Văn phòng Thừa phát lại, Điều 10 TTLT 09 bắt buộc các bên phải thanh lý hợp đồng và chấm dứt việc thi hành án. Tuy nhiên thực tế có nhiều trường hợp Văn phòng Thừa phát lại đang tổ chức thi hành án mà vừa phát sinh điều kiện thi hành án ở địa bàn Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương, vừa phát sinh điều kiện thi hành án ngoài Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương thì Văn phòng có tiếp tục thi hành án hay phải thanh lý hợp đồng thi hành án với người yêu cầu thi hành án? Hoặc trường hợp Văn phòng Thừa phát lại đang tổ chức thi hành án mà người phải thi hành án có điều kiện thi hành án ở địa bàn Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương nhưng chưa xác minh cụ thể được, đồng thời phát sinh điều kiện thi hành án ngoài địa bàn Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương thì Văn phòng có tiếp tục thi hành án hay phải thanh lý hợp đồng thi hành án với người yêu cầu thi hành án?

Kính đề nghị Bộ Tư Pháp, Tổng  Cục THADS sớm có văn bản hướng dẫn thi hành.

Về lâu dài, Văn phòng đề nghị nên quy định cơ chế ủy thác giữa các Văn phòng Thừa phát lại với nhau trên cơ sở thỏa thuận giữa các Văn phòng, vì hiện nay các Văn phòng Thừa phát lại đã được thành lập ở 13 Tỉnh, Thành trên cả nước, thời gian tới, khi hết thời gian thí điểm, các Văn phòng Thừa phát lại được thành lập trên cả nước thì việc quy định cơ chế ủy thác càng trở nên cấp bách.

  1. Về xác minh điều kiện thi hành án

Tình hình chung của các văn phòng Thừa phát lại tại TP.HCM là vẫn gặp nhiều khó khăn khi xác minh tại các cơ quan Thuế, cơ quan quản lý đăng ký xe… vì các cơ quan này vẫn viện dẫn Luật chuyên ngành chưa quy định.

Đối với một số văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, còn đòi hỏi văn phòng phải cung cấp thông tin về số giấy chứng nhận, số thửa, tờ bản đồ thì mới cung cấp thông tin chủ sở hữu, đăng ký quyền sử dụng đất, trong khi những nội dung đó chính là nội dung mà văn phòng thừa phát lại cần phải xác minh.

Các văn bản pháp luật về Thừa phát lại chưa đồng bộ và hiệu lực pháp luật chưa ngang bằng với các luật chuyên ngành khác làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Thừa phát lại.

III/ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ

  1. Về chính sách khuyến khích của nhà nước.
  • Thứ nhất, cùng với một số ngành được chủ trương xã hội hóa, các văn phòng thừa phát lại, Thừa phát lại hiện nay chưa được hưởng các chính sách ưu đã về xã hội hóa. Hiện nay, các văn phòng thừa phát lại mới chỉ được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian thí điểm. Trong buổi sơ kết một năm thành lập các văn phòng thừa phát lại, vấn đề này đã được Bộ trưởng Bộ Tư pháp đặt ra, yêu cầu các cơ quan chức năng nghiên cứu, đề xuất, nhưng hiện nay chưa có chuyển biến. Thực tế cho thấy, mặc dù đã đạt được những thành công nhất định, nhưng về tài chính, các văn phòng thừa phát lại vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, việc ưu đãi miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian thí điểm chưa phát huy được tác dụng. Để đẩy mạnh hoạt động của các văn phòng thừa phát lại trong thời gian tới, bên cạnh việc tiếp tục ưu đãi miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cần có chính sách phát triển phù hợp để khuyến khích, thu hút nhiều nguồn lực tham gia vào hoạt động Thừa phát lại.
  • Thứ hai, cần đưa Thừa phát lại vào các văn bản pháp luật có liên quan như Luật Luật sư, Luật Công chứng… như là một chức danh tư pháp có thể được miễn đào tạo khi bổ nhiệm luật sư, công chứng viên nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút nhân sự tham gia hoạt động Thừa phát lại.
  • Thứ ba, cần có cơ chế để Thừa phát lại tiếp cận người có nhu cầu tổ chức thi hành án, từ đó nâng cao số lượng việc thi hành án của Thừa phát lại như:
    •  Một là, ghi rõ trong Bản án/Quyết định của Tòa án nội dung: Bản án này có thể được thi hành án tại Chi cục thi hành án dân sự hoặc Văn phòng Thừa phát lại có thẩm quyền;
    •  Hai là, quy định việc Thừa phát lại được quyền nhận Bản án/Quyết định từ Tòa án để tự tiếp xúc, giới thiệu chức năng thi hành án của mình đến cá nhân, tổ chức có nhu cầu tổ chức thi hành án;
    • Ba là, Chi cục thi hành án dân sự nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở tạo điều kiện, bố trí chổ ngồi để Thừa phát lại cùng tiếp dân, để người dân được quyền tự do chọn lựa cơ quan tổ chức thi hành án cho mình. Đây là nội dung đã được Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự TP.HCM kết luận và đang bắt đầu được triển khai thực hiện. Hy vọng giải pháp này được chỉ đạo thực hiện một cách quyết liệt, nâng cao hiệu quả hoạt động Thừa phát lại.
    •  Bốn là, Về lâu dài, cần có cơ chế phân việc giữa Thừa phát lại và các Chi cục thi hành án, việc nào Chi cục thi hành án thực hiện, việc nào văn phòng Thừa phát lại thực hiện.
    •  Năm là, nghiên cứu thành lập Trung tâm dữ liệu Thi hành án  để tập trung thông tin về bản án, quyết định, tài sản thi hành án... đề các Cơ quan thi hành án, Văn phòng Thừa phát lại tự do tiếp cận thông tin, và trả chi phí.
    • Hoàn thiện quy định pháp luật về hoạt động của Thừa phát lại và quy định pháp luật liên quan.
      1. Cần xây dựng Luật Thừa phát lại

Thừa phát lại được Nhà nước trao quyền để thực hiện quyền lực Nhà nước, hoạt động Thừa phát lại liên quan đến nhiều lĩnh vực, đến nhiều ngành khác nhau, do đó chỉ khi ban hành Luật Thừa phát lại thì hoạt động này mới có thể được thực hiện một cách thuận lợi. Văn phòng kiến nghị ngay trong quá trình tổng kết thí điểm Thừa phát lại, cần rút kinh nghiệm và xây dựng ngay dự thảo Luật Thừa phát lại, trình Quốc hội thông qua ngay khi kết thúc thí điểm.

  1. Hoàn thiện các hệ thống pháp luật liên quan đến các chức năng của Thừa phát lại
    1. Trong lĩnh vực tống đạt
  • Một là, cần bổ sung vào Luật Tố tụng dân sự, Luật thi hành án dân sự và các ngành luật khác liên quan đến việc cấp, phát, tống đạt văn bản tố tụng thẩm quyền và trình tự tống đạt của Thừa phát lại theo hướng đơn giản, giảm thiểu việc sử dụng con dấu của chính quyền địa phương, nâng cao trách nhiệm của Văn phòng Thừa phát lại.
  • Hai là, kiến nghị Tòa án cần có hướng dẫn thống nhất thực hiện các biểu mẫu tống đạt, và tính hợp lệ của văn bản tống đạt trong các trường hợp phổ biến.
  • Ba là, kiến nghị tăng mức phí tống đạt theo mức giá trần của Thông tư liên tịch 09.
    1. Trong lĩnh vực lập vi bằng
  • Một là, cần rà soát, sửa đổi, thay thế, hợp nhất các văn bản hướng dẫn của Bộ Tư pháp về việc lập vi bằng theo hướng chỉ quy định về những vấn đề nguyên tắc khi lập vi bằng, không can thiệp quá sâu vào kỹ năng, nghiệp vụ lập vi bằng của Thừa phát lại, đặc biệt là không tự đặt thêm thủ tục cho Thừa phát lại khi lập vi bằng, đăng ký vi bằng cũng như giới hạn thẩm quyền lập vi bằng của Thừa phát lại vượt quá quy định tại Nghị định 61, Nghị Định 135.
  • Hai là, sau khi tổng kết hoạt động thí điểm Thừa phát lại, kiến nghị các cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung Nghị định 61, Nghị định 135 theo hướng bỏ thủ tục đăng ký vi bằng tại Sở Tư pháp. Đồng thời, Văn phòng kiến nghị bỏ nội dung “các trường hợp thuộc thẩm quyền công chứng của tổ chức hành nghề công chứng hoặc thuộc thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân các cấp và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật” tại khoản 1 Điều 25 vì hoạt động lập vi bằng nhằm tạo lập chứng cứ không liên quan đến hoạt động công chứng, chứng thực của cơ quan có thẩm quyền.
  • Ba là, bổ sung vào Luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hình sự… và các ngành luật khác giá trị chứng cứ của vi bằng.
  • Bốn là, kiến nghị Bộ Tư pháp ban hành văn bản hướng dẫn theo hướng quy định việc đăng ký vi bằng tại Sở Tư pháp là nhằm mục đích xác nhận việc Thừa phát lại có lập vi bằng trong thực tế. Nội dung của vi bằng và những vấn đề liên quan khác sẽ do Thừa phát lại chịu trách nhiệm nhằm nâng cao tính độc lập, trách nhiệm cá nhân của Thừa phát lại. Về lâu dài, cần bỏ thủ tục đăng ký vi bằng tại Sở Tư pháp, nâng cao trách nhiệm của Thừa phát lại trong việc thực hiện chức năng của mình đã được Nhà nước trao quyền.
    1. Trong việc tổ chức thi hành án và xác minh điêu kiện thi hành án
  • Một là, đưa Thừa phát lại và văn phòng Thừa phát lại vào Chương III Luật thi hành án dân sự với tính chất là hệ thống cơ quan tổ chức thi hành án dân sự tư nhân, và cho phép áp dụng ở những nơi đã có Thừa phát lại.
  • Hai là, đưa thẩm quyền áp dụng các biện pháp xác minh tài sản, áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế của Thừa phát lại vào các Luật chuyên ngành như Luật Thuế, Luật các tổ chức tín dụng… để tạo điều kiện thuận lợi cho Thừa phát lại thực thi  quyền hạn của mình khi tổ chức thi hành án và xác minh điêu kiện thi hành án.
  • Ba là, bổ sung quy định cơ chế ủy thác giữa các Văn phòng Thừa phát lại với nhau trên cơ sở thỏa thuận giữa các Văn phòng, vì hiện nay các Văn phòng Thừa phát lại đã được thành lập ở 13 Tỉnh, Thành trên cả nước, thời gian tới, khi hết thời gian thí điểm, các Văn phòng Thừa phát lại được thành lập trên cả nước thì việc quy định cơ chế ủy thác càng trở nên cần thiết.
    1. Hoàn thiện cơ chế phối hợp, hỗ trợ, cung cấp thông tin của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

Kiến nghị các cấp có thẩm quyền sớm ban hành văn bản hướng dẫn việc phối hợp, hỗ trợ, cung cấp thông tin cho Thừa phát lại trong việc cung cấp thông tin về thuế, tín dụng, đăng ký quyền sử dụng đất, đăng ký xe… và hỗ trợ Thừa phát lại trong việc cưỡng chế thi hành án.

  1. Các vấn đề khác

- Một là, cần triển khai thường xuyên các lớp đào tạo nguồn Thừa phát lại, thư ký nghiệp vụ đồng thời kéo dài thời thêm thời gian đào tạo so với trước. Đồng thời cho phép Thừa phát lại, Thư ký nghiệp vụ được tham gia lớp đào tạo chấp hành viên.

- Hai là, đưa pháp luật về Thừa phát lại vào  nội dung học tập, đào tạo trong các trường có đào tạo chuyên ngành luật để tạo nguồn nhân sự cho các Văn phòng Thừa phát lại trong tương lai.

- Ba là,  Văn phòng đề nghị tiếp tục tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về Thừa phát lại, để người dân được biết bên cạnh Cơ quan thi hành án dân sự, người dân còn có quyền yêu cầu Văn phòng Thừa phát lại tổ chức thi hành án, đồng thời có quyền yêu cầu Văn phòng Thừa phát lại xác minh điều kiện thi hành án để cung cấp cho Cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành, cũng như các công việc khác. Cần tuyên truyên theo hướng giải thích cho người dân hiểu được “Khi nào thì nên đến Văn phòng Thừa phát lại?”.

Trên đây là nội dung tham luận của Văn phòng Thừa phát lại Quận Bình Thạnh thay mặt cho các Văn phòng Thừa phát lại tại TP. Hồ CHí Minh, nhằm đóng góp thêm trong Hội nghị để tham khảo. Văn phòng mong rằng, Hội nghị sơ kết có những giải pháp để tăng cường công tác hỗ trợ Thừa phát lại trong giai đoạn thí điểm, tiến tới đưa chủ trương lớn này của Đảng và Nhà nước mở rộng ra cả nước.

Trân trọng !


Written : Ping

Search date :    

Go Top
Đăng ký tư vấn
Công ty luật FUJILAW